GIỚI THIỆU
Sách có 384 quẻ dùng để bói. Tương truyền là do Gia Cát Lượng tự là Khổng Minh thời Tam Quốc bên Tàu viết.
CÁCH BÓI
Khấn vái.
Con lạy Trời, con lạy Đất, con lạy Thánh, con lạy Thần.
Con cúi xin Trời, con cúi xin Đất, con cúi xin Thánh, con cúi xin Thần lai lâm ứng quẻ chỉ dạy.
Con xin hỏi: …………………………………………………
Con xin tạ ơn Trời, con xin tạ ơn Đất, con xin tạ ơn Thánh, con xin tạ ơn Thần.
Tìm quẻ.
Cách 1:
Người muốn xem quẻ, phải chọn ra ba chữ. Dựa vào số nét của ba chữ đó mà tính ra con số.
Chữ thứ nhất lấy làm hàng trăm, chữ thứ hai lấy làm hàng chục, chữ thứ ba lấy làm hàng đơn vị. Số nét bút chỉ tính từ 1 đến 9. Nếu là 10, 20, 30… thì tính là số 0. Nếu số nét lớn hơn 10 thì trừ cho 10, lớn hơn 20 thì trừ 20… còn lại số lẻ lấy đó.
Lấy con số 384 làm chuẩn. Lớn hơn số này thì trừ cho 384, trừ cho đến lúc nhỏ hơn hoặc bằng 384 là được số quẻ.
Nếu xin được quẻ 000 thì là xin lại lần hai. Lần hai vẫn được quẻ 000 thì hãy tự định đoạt.
Ví dụ chọn ba chữ: 佑 咱 統 (hữu tự thống)
佑 hữu: 7 nét (hàng trăm là 7)
咱 tự: 9 nét (hàng chục là 9)
統 thống: 12 nét trừ đi 10 còn lại 2 (hàng đơn vị là 2)
Thành số: 792 (bảy trăm chín mươi hai)
Lấy 792 trừ 384 còn 408, trừ tiếp cho 384 được 024. Vậy số 024 là số quẻ để bói.
Cách 2:
Chọn 10 tờ giấy giống nhau. Viết lên mỗi tờ một số từ 1 tới 10. Sau đó nháo đều. Bốc lần đầu được số hàng trăm; để số đã bốc được lại rồi nháo, bốc lần hai được số hàng chục; để số đã bốc được lại rồi nháo, bốc lần ba được số hàng đơn vị. Ghép ba số đó lại, nếu nhỏ hơn hoặc bằng 384 thì đó chính là số quẻ, nếu lớn hơn thì đem trừ 384 để tìm số quẻ.
Lời quẻ.
天門一樹榜, 預定奪標人, 馬嘶芳草地, 秋高聽鹿鳴.
Thiên môn nhất thụ bảng, dự định đoạt tiêu nhân, mã tê phương thảo địa, thu cao thính lộc minh.
Cửa Trời ngôi vị sẵn, ai kẻ đoạt công đầu, cỏ thơm vang ngựa hí, thu mát vẳng hươu kêu.
地有神, 甚威靈, 興邦輔國, 尊主庇民.
Địa hữu Thần, thậm uy linh, hưng bang phụ quốc, tôn Chúa tý dân.
Đất có Thần, rất oai linh, phò quốc hưng bang, giúp dân tôn Chúa.
長安花不可及, 春風中馬蹄疾, 急早加鞭, 驟然生色.
Trường An hoa bất khả cập, xuân phong trung mã đề tật, cấp tảo gia tiên, sậu nhiên sinh sắc.
Trường An hoa chẳng kịp nở, trong gió Xuân ngựa chứng hí, mau cho roi vọt để thúc nó, sau được kết quả.
春花嬌媚, 不禁雨打風飄, 秋菊幽芳, 反耐霜雪傲.
Xuân hoa kiều mị, bất cấm vũ đả phong phiêu, thu cúc u phương, phản nại sương tuyết ngạo.
Hoa Xuân yêu kiều, chẳng cấm mưa tuôn gió cuốn, hoa cúc mùa Thu có mùi thơm kín đáo, chịu đựng sương tuyết rơi.
春雷震, 夏風巽, 臥龍起, 猛虎驚, 風雲會合, 救濟蒼生.
Xuân lôi chấn, hạ phong tốn, ngoạ long khởi, mãnh hổ kinh, phong vân hội hợp, cứu tế thương sinh.
Mùa Xuân có sấm sét, mùa Hạ có gió thổi, rồng nằm bay lên, cọp mạnh kinh sợ, gió mây hội họp, cứu giúp sinh linh.
非玄非奧, 非淺非深, 一個妙道, 著意搜尋.
Phi huyền phi áo, phi thiển phi thâm, nhất cá diệu đạo, trước ý sưu tầm.
Chẳng huyền (mờ mịt) chẳng áo (sâu kín), chẳng cạn chẳng sâu, một con đường kỳ diệu, suy gẫm cân đo, gắng chí tầm.
君須悟, 勿誤疑, 有平路, 任驅馳, 隨時變易, 件件鹹宜.
Quân tu ngộ, vật ngộ nghi, hữu bình lộ, nhậm khu trì, tuỳ thời biến dịch, kiện kiện hàm nghi.
Ông nên biết chắc, chớ có nghi ngờ, có đường bằng phẳng, mau mau rong ruổi, tùy cơ ứng biến, mọi việc tốt đang chờ.
虎戀高山別有機, 眾人目下尚狐疑, 雁來嘹嚦黃花發, 此際聲名達帝畿.
Hổ luyến cao sơn biệt hữu cơ, chúng nhân mục hạ thượng hồ nghi, nhạn lai liêu lịch huỳnh hoa phát, thử tế thanh danh đạt đế kì.
Dù cọp có mến non cao cũng phải có lúc từ biệt, dưới mắt mọi người chớ hồ nghi, chim nhạn đến chỗ vắng thấy hoa vàng nở, danh tiếng nổi lên bay đến cung vua (kinh đô).
貴客相逢更可期, 庭前枯木鳳來儀, 好將短事求長事, 休聽旁人說是非.
Quí khách tương phùng cánh khả kỳ, đình tiền khô mộc phượng lai nghi, hảo tương đoản sự cầu trường sự, hưu thính bàng nhân thuyết thị phi.
May mắn gặp được khách quí, cây khô trước sân có chim phượng đến đậu, hãy lấy việc ngắn mà tìm việc dài, đừng nghe những lời thị phi của người ngoài.
嘹嚦征鴻獨出群, 高飛羽翼更糾紛, 雲程北進好音遂聞, 朝雲暮雨交加有憑.
Liêu lịch chinh hồng độc xuất quần, cao phi vũ dực cánh củ phân, vân trình bắc tiến hảo âm toại văn, triêu vân mộ vũ giao gia hữu bằng.
Chim nhạn lẻ loi một mình tách khỏi bầy, hãy bay lên cao đi, đừng quyến luyến làm gì, đi về hướng Bắc sẽ nghe được tiếng tốt, dù có gió sớm mưa chiều cũng không đè nổi cánh chim bằng.
無蹤又無跡, 遠近均難覓, 平地起風波, 似笑還成泣.
Vô tung hựu vô tích, viễn cận quân nan mịch, bình địa khởi phong ba, tự tiếu hoàn thành khấp.
Không thấy tung tích, xa gần khó tìm, đất bằng nổi sóng gió, như cười mà thành khóc.
神黯黯, 意悠悠, 收卻線, 莫下鉤.
Thần ảm ảm, ý du du, thu khước tuyến, mạc hạ câu.
Thần u ám, ý mịt mờ, thâu sợi nhợ, chớ buông câu.
Sách có 384 quẻ dùng để bói. Tương truyền là do Gia Cát Lượng tự là Khổng Minh thời Tam Quốc bên Tàu viết.
CÁCH BÓI
Khấn vái.
Con lạy Trời, con lạy Đất, con lạy Thánh, con lạy Thần.
Con cúi xin Trời, con cúi xin Đất, con cúi xin Thánh, con cúi xin Thần lai lâm ứng quẻ chỉ dạy.
Con xin hỏi: …………………………………………………
Con xin tạ ơn Trời, con xin tạ ơn Đất, con xin tạ ơn Thánh, con xin tạ ơn Thần.
Tìm quẻ.
Cách 1:
Người muốn xem quẻ, phải chọn ra ba chữ. Dựa vào số nét của ba chữ đó mà tính ra con số.
Chữ thứ nhất lấy làm hàng trăm, chữ thứ hai lấy làm hàng chục, chữ thứ ba lấy làm hàng đơn vị. Số nét bút chỉ tính từ 1 đến 9. Nếu là 10, 20, 30… thì tính là số 0. Nếu số nét lớn hơn 10 thì trừ cho 10, lớn hơn 20 thì trừ 20… còn lại số lẻ lấy đó.
Lấy con số 384 làm chuẩn. Lớn hơn số này thì trừ cho 384, trừ cho đến lúc nhỏ hơn hoặc bằng 384 là được số quẻ.
Nếu xin được quẻ 000 thì là xin lại lần hai. Lần hai vẫn được quẻ 000 thì hãy tự định đoạt.
Ví dụ chọn ba chữ: 佑 咱 統 (hữu tự thống)
佑 hữu: 7 nét (hàng trăm là 7)
咱 tự: 9 nét (hàng chục là 9)
統 thống: 12 nét trừ đi 10 còn lại 2 (hàng đơn vị là 2)
Thành số: 792 (bảy trăm chín mươi hai)
Lấy 792 trừ 384 còn 408, trừ tiếp cho 384 được 024. Vậy số 024 là số quẻ để bói.
Cách 2:
Chọn 10 tờ giấy giống nhau. Viết lên mỗi tờ một số từ 1 tới 10. Sau đó nháo đều. Bốc lần đầu được số hàng trăm; để số đã bốc được lại rồi nháo, bốc lần hai được số hàng chục; để số đã bốc được lại rồi nháo, bốc lần ba được số hàng đơn vị. Ghép ba số đó lại, nếu nhỏ hơn hoặc bằng 384 thì đó chính là số quẻ, nếu lớn hơn thì đem trừ 384 để tìm số quẻ.
Lời quẻ.
天門一樹榜, 預定奪標人, 馬嘶芳草地, 秋高聽鹿鳴.
Thiên môn nhất thụ bảng, dự định đoạt tiêu nhân, mã tê phương thảo địa, thu cao thính lộc minh.
Cửa Trời ngôi vị sẵn, ai kẻ đoạt công đầu, cỏ thơm vang ngựa hí, thu mát vẳng hươu kêu.
地有神, 甚威靈, 興邦輔國, 尊主庇民.
Địa hữu Thần, thậm uy linh, hưng bang phụ quốc, tôn Chúa tý dân.
Đất có Thần, rất oai linh, phò quốc hưng bang, giúp dân tôn Chúa.
長安花不可及, 春風中馬蹄疾, 急早加鞭, 驟然生色.
Trường An hoa bất khả cập, xuân phong trung mã đề tật, cấp tảo gia tiên, sậu nhiên sinh sắc.
Trường An hoa chẳng kịp nở, trong gió Xuân ngựa chứng hí, mau cho roi vọt để thúc nó, sau được kết quả.
春花嬌媚, 不禁雨打風飄, 秋菊幽芳, 反耐霜雪傲.
Xuân hoa kiều mị, bất cấm vũ đả phong phiêu, thu cúc u phương, phản nại sương tuyết ngạo.
Hoa Xuân yêu kiều, chẳng cấm mưa tuôn gió cuốn, hoa cúc mùa Thu có mùi thơm kín đáo, chịu đựng sương tuyết rơi.
春雷震, 夏風巽, 臥龍起, 猛虎驚, 風雲會合, 救濟蒼生.
Xuân lôi chấn, hạ phong tốn, ngoạ long khởi, mãnh hổ kinh, phong vân hội hợp, cứu tế thương sinh.
Mùa Xuân có sấm sét, mùa Hạ có gió thổi, rồng nằm bay lên, cọp mạnh kinh sợ, gió mây hội họp, cứu giúp sinh linh.
非玄非奧, 非淺非深, 一個妙道, 著意搜尋.
Phi huyền phi áo, phi thiển phi thâm, nhất cá diệu đạo, trước ý sưu tầm.
Chẳng huyền (mờ mịt) chẳng áo (sâu kín), chẳng cạn chẳng sâu, một con đường kỳ diệu, suy gẫm cân đo, gắng chí tầm.
君須悟, 勿誤疑, 有平路, 任驅馳, 隨時變易, 件件鹹宜.
Quân tu ngộ, vật ngộ nghi, hữu bình lộ, nhậm khu trì, tuỳ thời biến dịch, kiện kiện hàm nghi.
Ông nên biết chắc, chớ có nghi ngờ, có đường bằng phẳng, mau mau rong ruổi, tùy cơ ứng biến, mọi việc tốt đang chờ.
虎戀高山別有機, 眾人目下尚狐疑, 雁來嘹嚦黃花發, 此際聲名達帝畿.
Hổ luyến cao sơn biệt hữu cơ, chúng nhân mục hạ thượng hồ nghi, nhạn lai liêu lịch huỳnh hoa phát, thử tế thanh danh đạt đế kì.
Dù cọp có mến non cao cũng phải có lúc từ biệt, dưới mắt mọi người chớ hồ nghi, chim nhạn đến chỗ vắng thấy hoa vàng nở, danh tiếng nổi lên bay đến cung vua (kinh đô).
貴客相逢更可期, 庭前枯木鳳來儀, 好將短事求長事, 休聽旁人說是非.
Quí khách tương phùng cánh khả kỳ, đình tiền khô mộc phượng lai nghi, hảo tương đoản sự cầu trường sự, hưu thính bàng nhân thuyết thị phi.
May mắn gặp được khách quí, cây khô trước sân có chim phượng đến đậu, hãy lấy việc ngắn mà tìm việc dài, đừng nghe những lời thị phi của người ngoài.
嘹嚦征鴻獨出群, 高飛羽翼更糾紛, 雲程北進好音遂聞, 朝雲暮雨交加有憑.
Liêu lịch chinh hồng độc xuất quần, cao phi vũ dực cánh củ phân, vân trình bắc tiến hảo âm toại văn, triêu vân mộ vũ giao gia hữu bằng.
Chim nhạn lẻ loi một mình tách khỏi bầy, hãy bay lên cao đi, đừng quyến luyến làm gì, đi về hướng Bắc sẽ nghe được tiếng tốt, dù có gió sớm mưa chiều cũng không đè nổi cánh chim bằng.
無蹤又無跡, 遠近均難覓, 平地起風波, 似笑還成泣.
Vô tung hựu vô tích, viễn cận quân nan mịch, bình địa khởi phong ba, tự tiếu hoàn thành khấp.
Không thấy tung tích, xa gần khó tìm, đất bằng nổi sóng gió, như cười mà thành khóc.
神黯黯, 意悠悠, 收卻線, 莫下鉤.
Thần ảm ảm, ý du du, thu khước tuyến, mạc hạ câu.
Thần u ám, ý mịt mờ, thâu sợi nhợ, chớ buông câu.