Trang chủ
Cổ học tinh hoa

Cổ học tinh hoa

Tác giả : Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc

Thể loại : Văn Hóa

Đã xem : 2.704

Số Chương / Tập : 90

Cập nhật lần cuối : 1 tháng trước

Đọc trên điện thoại

Giới thiệu

"Có mới, nới cũ" thường tình vẫn thế. Tân học mỗi ngày một tiến, tất Cựu học phải lùi và có khi sợ rồi mai một đi mất.

Nhưng, Tân học mà hay, tất là Tân học có một nền tảng vững chắc. Nền tảng ấy tức là tinh hoa của Cựu học. Cựu học nước nhà là một thứ học trải qua bao nhiêu đời, đã làm cho ông cha ta phù thực được cương thường, chấn chỉnh được phong hóa, bảo tồn được quốc thể, duy trì được thế đạo nhân tâm, thật không phải là một cái Học không có giá trị đáng khinh rẻ hay quên bỏ được. Vả chăng: "Tri kim, nhi bất tri cổ, vị chi manh cổ; tri cổ, nhi bất tri kim, vị tri lục trầm" ta đã biết truyện đời nay, ta lại cần phải học truyện đời xưa, ta ôn lại việc đời xưa mà ta rõ được việc đời nay, có như thế, thì cái Học của ta mới không đến nỗi khiếm khuyết. Vì, tuy chia làm cổ, kim, nhưng chẳng qua cũng chỉ là buổi sớm, buổi chiều trong một ngày của trời đất, kẻ học giả mà câu nệ chấp nhất, chỉ biết cổ không muốn biết kim, hay chỉ biết kim không muốn biết cổ, thì sao gọi là "bác cổ thông kim" được!

Cựu học của ta là gì? Cựu học của ta tức là Hán học nghĩa là một cái Học chung cho cả mấy dân tộc ở Á Đông đã chịu cái văn hóa của giống người Hán, tức là người Trung Hoa. Cựu học không phải là chỉ có Tứ Thư, Ngũ Kinh, xưa kia đa số quen dùng làm cái học cử nghiệp mà thôi. Ngoại giả, còn Bác gia chư tử thật là man mác rộng như bể, học thuyết đủ mọi mặt, lý tưởng rất xâu xa, muốn học cho tới nơi, phải mất bao nhiêu công phu, thời giờ mới được.

Nay, chúng tôi biên tập quyển sách nầy, không phải là muốn chuyên tâm nghiên cứu riêng một phái nào hay một nhà nào. Chúng tôi chỉ góp nhặt một đôi chút lý tưởng trong Cổ học gọi là để cho người đọc thiệp liệp qua được một ít tinh hoa của lối học cũ mà thôi. Nên chúng tôi mới lạm dụng bốn chữ "Cổ Học Tinh Hoa" làm nhan sách.

Chúng tôi có ý chọn những bài ngắn mà nghĩa lý hàm súc dồi dào. Những bài ấy tuy là truyện từ đời xưa bên Tàu, nhưng ứng dụng vào đời nào và ở đâu cũng được. Vì truyện tuy cổ, nhưng cái chân lý thì bao giờ cũng là một, mà bao giờ cũng như mới. Nào hiếu đệ, nào trung tín, nào lễ nghĩa, nào liêm sĩ, đến cả những việc kỳ quái, sinh tử; bài nầy chính giọng huấn giáo, bài kia rõ thể ngụ ngôn, truyện nầy nghiêm trang khắc khổ, truyện kia khôi hài lý thú; đức Khổng nói "Nhân" hồn nhiên như hóa công; ông Mạnh bàn "Nghĩa" chơm chởm như núi đá, Tuân Tử nói "Lễ" thật là đường bệ, Mặc Tử nói "Ái" thật là rộng rãi, hình danh như Hàn phi tử thật là nghiêm nghị khiến người mất bụng làm xằng, ngôn luận như Án Tử thật là thâm thiết khiến người dễ đường tỉnh ngộ, đến nói đạo đức như Lão Tử, bàn khoáng đạt như Trang Tử thật lại biến hóa như rồng, phấp phới như mây... các lý thuyết mỗi nhà một khác, có khi phản đối hẳn nhau, nhưng thực khiến cho người đọc vừa được vui, vừa phải đem tâm suy nghĩ.

Dịch những bài văn như thế, chúng tôi lấy làm rất khó. Chẳng những chữ Hán dịch ra chữ Nam, lắm câu không hết được nghĩa, nhiều bài, chính nguyên văn cũng mỗi nơi chép một khác không lấy gì làm xác định. Nên khi dịch, chúng tôi phải châm chước cân nhắc từng bài, bài thì địch thẳng nguyên văn, bài thì chỉ dịch lấy đại ý, hoặc có bài phải rút bớt, hay thêm ra, hay đúc lại, cốt cho nó xuông tiếng Nam mà không hại đến nghĩa bài thì thôi. Dịch Hán văn ra quốc văn, tất phải dùng nhiều chữ Hán. Song chữ nào bất đắc dĩ phải dùng, thì ở dưới chúng tôi đã có "giải nghĩa" rõ ràng. Nghĩa ấy thường chỉ là nghĩa riêng trong bài, chớ không phải hết mọi nghĩa của từng chữ.

Những tên người, tên đất, muốn cho tinh tường, đáng lẽ phải có một cái biểu liệt đủ tên những tác giả cùng những người nói trong chuyện và một bức địa đồ Trung Hoa trải qua các thời đại. Nhưng việc ấy xin để nhường những nhà chuyên về Bắc sử sau nầy, đây chúng tôi chỉ chua qua để cho độc giả đủ biết cái đại cương mà thôi.

Đọc một bài văn hay, mà tư tưởng đã thấm thía vào tâm não, thì tất không sao để yên ngòi bút mà không phê bình được. Đó cũng là một cái thông bệnh của những người hâm mộ văn chương hay có cái thú ngâm nga và đưa ngòi bút khuyên liền, khuyên kín vậy. Chúng tôi cũng không tránh khỏi cái bệnh ấy. Nên dưới mỗi bài chúng tôi cũng góp "Lời Bàn", cốt là để giải rõ các đại ý trong bài hoặc lạm bình một, đôi câu ứng với cái thời buổi bây giờ.

Chúng tôi mạo muội biên dịch quyển sách nầy là quyển đầu, có ý bảo tồn tinh hoa của cổ học và mong các bạn thiếu niên ta nhớ đến nguồn gốc từ bao nghiêu nghìn năm về trước, rõ các điển tích thường dẫn trong văn chương nước nhà, thêm trước được ít tài liệu có khi làm văn phải dùng đến, rộng được ít tri thức tuy thuộc về Cổ học mà thật khác nào "như thóc gạo, như vải lụa", thường cần đến hàng ngày. Nếu quyển sách này, giúp được một phần trong muôn phần ấy, thì chúng tôi lấy làm hoan hỷ lắm vậy.

Hà Nội, ngày 21 tháng 10 năm Ất Sửu (1925)

Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc

Từ An Trần Lê Nhân

Bình luận

Không quên cái cũ

Lúc đi trắng, lúc về đen

Lợi mê lòng người

Lấy của ban ngày

Khổ thân làm việc nghĩa

Cách cư xử ở đời

Tu thân

Ôm cây đợi thỏ

Đánh dấu thuyền tìm gươm

Ba con rận kiện nhau

Đạo vợ chồng

Mong làm điều phải

Yêu nên tốt, ghét nên xấu

Cảm tình

Khéo can được vua

Cậy người không bằng chắc ở mình

Bệnh quên

Đáng sợ gì hơn cả

Cách đâm hổ

Báo thù

Hết lòng vì nước

Cáo mượn oai hổ

Vua tôi bàn việc

Câu nói của người đánh cá

Lá dó

Trước khi đánh người phải biết giữ mình

Mạnh Thường Quân và nước Tần

Bỏ quên con sinh

Dung người được báo

Biết rõ chữ nghĩa

Không nhận cá

Ông quan thanh bạch

Thầy Tăng Sâm

Tăng Sâm giết người

Bán mộc bán giáo

Giáp Ất tranh luận

Chết mà còn răn được vua

Lợn mẹ giết lợn con

Tài nghề con lừa

Vẽ gì khó

Lẽ sống chết

Muôn vật một loài

Rửa tai

Phẩm trật ông quan, phẩm giá con người

Liêm, sỉ

Nghĩa công nặng hơn tình riêng

Mua xương ngựa

Hay dở đều do mình cả

Kéo lê đuôi mà đi

Làm nhà cỏ cũng đủ

Quan tài con

Chiếc thuyền đụng chiếc đò

Không chịu theo kẻ phản nghịch

Đám ma to

Lo trời đổ

Không yêu nhau mới loạn

Tưới dưa cho người

Rắn dời chỗ ở

Lúc nào được nghỉ?

Hang Ngu Công

Họ Doãn làm giàu

Người kiếm củi được con hươu

Vợ thầy kiện

Treo kiếm trên mộ

Tên tù nước Sở

Thằng điên

Ba điều vui

Vợ răn chồng

Trồng khó, nhổ dễ

Cái được cái mất của người làm Quan

Gặp quỷ

Hai phải

Nên xử thế nào?

Chính danh

Chết đói đầu núi

Ngu Công dọn núi

Can gì mà phá đi

Cách trị dân

Lo, vui

Ma nói chuyện

Say bắn chết trâu

Nuôi gà chọi

Ứng đối lanh lợi

Hoạ phúc không lường

Tình mẹ con của loài vượn

Mã Viện

Khấu Chuẩn thương nhớ mẹ

Nhan Súc nói chuyện với Tề Vương

Thập Bì nói chuyện với Huệ Vương

Say, tỉnh, đục, trong